Trong chứng kiến không có bản ngã – nhưng điều này tới chỉ nếu bạn có thể siêu việt trên ngôn ngữ. Ngôn ngữ là rào chắn. Ngôn ngữ được cần tới để trao đổi với người khác; nó không được cần tới để trao đổi với bản thân người ta. Nó là công cụ có ích – còn hơn thế, nó là công cụ có ích nhất. Con người có thể tạo ra xã hội, thế giới, chỉ bởi vì ngôn ngữ. Nhưng bởi vì ngôn ngữ, con người đã quên mất bản thân mình.
Ngôn ngữ là thế giới của chúng ta. Nếu trong một khoảnh khắc thôi con người quên mất ngôn ngữ, thế thì cái gì còn lại? Văn hoá, xã hội, Hindu giáo, Ki tô giáo, cộng sản – cái gì còn lại? Chẳng cái gì còn lại cả. Nếu duy nhất ngôn ngữ được lấy ra khỏi sự tồn tại, toàn thể nhân loại với văn hoá, văn minh, khoa học, tôn giáo, triết học, biến mất.
Mâu thuẫn giữa ngôn ngữ và hiện thực
Ngôn ngữ là việc trao đổi với người khác; nó là việc trao đổi duy nhất. Nó hữu dụng, nhưng nó nguy hiểm – và bất kì khi nào công cụ nào đó hữu dụng, nó đều có cùng tỉ lệ nguy hiểm nữa. Nguy hiểm là thế này, rằng tâm trí càng đi vào trong ngôn ngữ, nó càng đi xa hơn khỏi trung tâm. Cho nên người ta cần cân bằng tinh tế và làm chủ tinh tế để có khả năng đi vào trong ngôn ngữ và cũng có khả năng bỏ lại ngôn ngữ, đi ra khỏi ngôn ngữ.
Chứng kiến nghĩa là đi ra khỏi ngôn ngữ, việc nói, tâm trí. Chứng kiến nghĩa là trạng thái của vô trí, vô suy nghĩ.
Cho nên cố gắng điều đó đi! Nó là nỗ lực lâu dài, và không gì dự đoán được cả – nhưng cố gắng, và nỗ lực sẽ cho bạn những khoảnh khắc nào đó khi bỗng nhiên ngôn ngữ biến mất. Và thế thì một chiều hướng mới mở ra. Bạn trở nên nhận biết về một thế giới khác – thế giới của sự đồng thời, thế giới của ở đây và bây giờ, thế giới của vô trí, thế giới của thực tại.